Học Hỏi
----------------------
BẢN DỊCH THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI (Chương 1 và 2)
Written by lcd on Tháng Mười 16th, 2020. Posted in Lm Lê Công Đức, Thiên Phong, Văn kiện Giáo Hội
Thông Điệp FRATELLI TUTTI
của Đức Thánh Cha Phanxicô
VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH THÂN HỮU XÃ HỘI
(Lê Công Đức, PSS, dịch từ bản tiếng Anh)
- ”Fratelli tutti”. (1) Với những từ này, Thánh Phanxicô Assisi đã nói với các anh chị em mình và đã gợi cho họ một lối sống mang bản sắc Tin Mừng. Trong số những lời khuyên của Thánh Phanxicô, tôi muốn chọn lời khuyên trong đó ngài kêu gọi một tình yêu vượt quá những rào cản địa dư và khoảng cách, và ngài tuyên bố phúc cho tất cả những ai yêu mến người anh em mình, “khi người ấy ở xa cũng như khi ở gần”. (2) Một cách đơn sơ và trực tiếp, Thánh Phanxicô đã diễn tả yếu tính của một sự cởi mở huynh đệ cho phép chúng ta nhận ra, trân trọng, và yêu thương mỗi con người, bất kể sự dị đồng thể lý, bất kể người ấy sinh ra hay sống ở đâu.
- Chính vị thánh của tình huynh đệ, của nét đơn giản và niềm vui này đã truyền cảm hứng cho tôi viết Thông điệp Laudato Si’, lại một lần nữa ngài thôi thúc tôi dành Thông điệp mới này cho tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội. Thánh Phanxicô cảm nhận ngài là người anh em của mặt trời, của biển và của gió, song ngài cũng biết rằng ngài thậm chí gần gũi hơn với con người cùng một cốt nhục. Đi đâu ngài cũng gieo rắc hạt giống hòa bình và sóng bước với người nghèo, những kẻ bị bỏ rơi, những người đau yếu, những người bị loại trừ, những anh em chị em bé nhỏ nhất của ngài.
KHÔNG BIÊN GIỚI
- Có một đoạn đời của Thánh Phanxicô cho thấy rõ con tim rộng mở của ngài, con tim không biết đến giới hạn và vượt quá những dị biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là chuyến đi của ngài đến thăm Sultan Malik-el-Kamil ở Ai Cập, một chuyến đi đầy gian khổ bởi vì ngài rất nghèo khó, bởi tình cảnh thiếu thốn, bởi những quãng đường xa phải đi, và bởi sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Hành trình ấy – được thực hiện vào thời Thập tự chinh – càng cho thấy tình yêu rộng mở và lớn lao của ngài, một tình yêu tìm cách ôm lấy hết mọi người. Lòng trung tín của Phanxicô với Chúa tương ứng với tình yêu của ngài dành cho anh chị em mình. Không sờn lòng trước những khổ cực và hiểm nguy, Phanxicô đi gặp vị Sultan với chính thái độ mà ngài thôi thúc các môn đệ: Nếu họ thấy mình “ở giữa những người Hồi giáo và những người vô tín khác”, thì trong khi không chối bỏ căn tính của mình, họ cũng không được “vướng vào những tranh luận hay cãi vã, song phải chấp nhận mọi người khác vì Chúa”. (3) Trong bối cảnh thời ấy, đây là một khuyến cáo phi thường. Chúng ta thật ấn tượng khi thấy cách đây ngót tám trăm năm Thánh Phanxicô đã khẩn thiết kêu gọi rằng cần phải tránh mọi hình thức thù địch hay xung đột, và cần phải bày tỏ một thái độ “nhận chịu” trong tinh thần khiêm tốn và huynh đệ đối với những ai không cùng niềm tin với mình.
- Thánh Phanxicô không dấy lên sự cãi vã nhằm áp đặt các giáo thuyết; ngài chỉ đơn giản làm lan tỏa tình yêu. Ngài hiểu rằng “Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa” (1Ga 4,16). Bằng cách này, ngài đã trở thành một người cha của mọi người và khơi gợi tầm nhìn về một xã hội huynh đệ. Thật vậy, “chỉ những ai đến với người khác, không phải để lôi kéo họ vào trong đời sống mình, nhưng để giúp họ trở thành chính họ trọn vẹn hơn, thì mới có thể được gọi là một người cha đích thực”. (4) Trong thế giới vào thời đó, tua tủa những tháp canh và những tường thành phòng thủ, các thành phố là bãi chiến trường khốc liệt giữa những gia tộc quyền lực, trong khi sự khốn khó tràn lan khắp các miền quê. Nhưng Phanxicô đã có thể chào đón sự bình an đích thực trong tâm hồn mình và giải thoát mình khỏi tham vọng áp chế người khác. Ngài trở thành một người nghèo và tìm kiếm cách sống hòa hợp với mọi người. Chính Thánh Phanxicô đã khơi cảm hứng cho Thông điệp này.
- Tình huynh đệ giữa con người và tình thân hữu xã hội vẫn luôn là một mối quan tâm của tôi. Trong những năm gần đây, tôi đã nói về các vấn đề này cách thường xuyên và trong những khung cảnh khác nhau. Trong Thông điệp này, tôi tìm cách phối kết lại nhiều phát biểu ấy và đặt chúng vào một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn. Khi chuẩn bị cho Laudato Si’, tôi nhận được một nguồn cảm hứng từ Thượng phụ Chính Thống Bartholomew, người anh em của tôi, và là người đã lên tiếng rất mạnh mẽ rằng chúng ta cần phải chăm sóc công trình tạo dựng. Còn ở đây, tôi cảm thấy được khích lệ cách riêng bởi Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, người mà tôi đã gặp ở Abu Dhabi, và tại đó chúng tôi đã tuyên bố rằng “Thượng đế đã dựng nên mọi người bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, và đã kêu gọi họ sống với nhau như anh chị em”. (5) Đây không phải một cử chỉ ngoại giao thuần túy, mà là một phản hồi từ cuộc đối thoại và sự cam kết chung. Thông điệp này đề cập và khai triển một số chủ đề lớn được nêu lên trong Văn kiện mà cả hai chúng tôi đã ký. Bên cạnh những suy tưởng của mình, tôi cũng thu nạp vào đây nhiều thư từ, tài liệu và nhận định mà tôi nhận được từ nhiều cá nhân và nhiều nhóm trên khắp thế giới.
- Những trang sau đây không tham vọng cung ứng một giáo huấn hoàn chỉnh về tình yêu huynh đệ, nhưng đúng hơn muốn xem xét tầm phổ quát của nó, sự khai mở nó cho mọi người nam cũng như nữ. Tôi trao gửi Thông điệp xã hội này như một đóng góp khiêm tốn vào công cuộc suy tư còn tiếp tục, trong hy vọng rằng khi đứng trước những mưu toan ngày nay nhằm loại bỏ hay thờ ơ tha nhân, chúng ta có thể chứng minh rằng mình có khả năng đáp trả với một tầm nhìn mới về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội không chỉ dừng lại ở những lời lẽ suông. Mặc dù tôi viết Thông điệp này từ những xác tín Kitô giáo là nguồn cảm hứng và nâng đỡ mình, tôi vẫn muốn làm cho những suy tư này trở thành một lời mời gọi đối thoại giữa mọi người thiện chí.
- Khi tôi viết Thông điệp này, cơn đại dịch Covid-19 bất ngờ bùng phát, làm lộ rõ những sự an toàn giả tạo của chúng ta. Bên cạnh những phương thức khác nhau mà nhiều quốc gia dùng để đối phó với cơn khủng hoảng, thì sự bất lực của các quốc gia trong việc cộng tác với nhau cũng được thấy rõ ràng. Bất chấp mọi nối kết của chúng ta, chúng ta chứng kiến một sự phân hóa làm cho việc giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến tất cả chúng ta trở nên khó khăn hơn. Bất cứ ai nghĩ rằng bài học duy nhất để học là cần phải làm tốt hơn những gì mình vẫn đang làm, hay cần phải thanh lọc các hệ thống và các qui tắc hiện hành, thì đó là những người đang phủ nhận thực tại.
- Trong thời đại này của chúng ta, tôi ao ước rằng bằng cách nhìn nhận phẩm giá của mọi con người, chúng ta có thể góp phần phục sinh một cảm hứng phổ quát về tình huynh đệ. Tình huynh đệ giữa mọi người, nam cũng như nữ. “Ở đây chúng ta có một bí quyết tuyệt diệu giúp chúng ta biết cách ước mơ và biến đời sống mình thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Không ai có thể một mình đối mặt với đời sống… Chúng ta cần một cộng đoàn nâng đỡ và trợ giúp mình, trong đó chúng ta có thể giúp nhau hướng nhìn về phía trước. Thật quan trọng biết bao việc biết cùng mơ ước với nhau… Tự sức mình, chúng ta có nguy cơ nhìn thấy những ảo ảnh, là những cái không có ở đó. Mặt khác, các giấc mơ được kiến tạo cùng với nhau”. (6) Vì thế, chúng ta hãy mơ, trong tư cách là một gia đình nhân loại duy nhất, như những bạn đồng hành chia sẻ cùng một cốt nhục, như những đứa con của cùng mẹ trái đất là ngôi nhà chung của mình, mỗi người chúng ta đóng góp bằng sự phong phú của những niềm tin tưởng và xác tín của mình, mỗi chúng ta với tiếng nói của mình, tất cả đều là anh chị em.
CHƯƠNG I
MÂY ĐEN PHỦ TRÙM MỘT THẾ GIỚI ĐÓNG KÍN
- Không tham vọng làm một phân tích toàn triệt hay nghiên cứu mọi khía cạnh trong kinh nghiệm hiện thời của chúng ta, tôi chỉ muốn xem xét một số xu hướng trong thế giới hiện nay đang làm bế tắc sự phát triển của tình huynh đệ đại đồng.
NHỮNG GIẤC MƠ VỠ VỤN
- Trong nhiều thập kỷ, dường như thế giới đã học được bài học từ nhiều cuộc chiến tranh và tai ương của mình, và đã dần dần đi tới hội nhập trong những hình thức khác nhau. Chẳng hạn, đã có giấc mơ về một Châu Âu hợp nhất, có thể nhìn nhận những gốc rễ chung của nó và cảm thụ tính đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ về “niềm xác tín vững chắc của các nhà sáng lập Cộng đồng Châu Âu, họ đã hình dung một tương lai dựa trên khả năng làm việc với nhau để nối kết những sự phân hóa, thúc đẩy hòa bình và hữu nghị giữa mọi dân tộc trên lục địa này”. (7) Cũng đã có một khát vọng ngày càng hơn về sự hội nhập ở Châu Mỹ La tinh, và một số bước đã được thực hiện trong chiều hướng này. Tại một số quốc gia và khu vực, những cố gắng hòa giải và hữu nghị đã tỏ ra có hiệu quả, trong khi những nơi khác thì được thấy có nhiều triển vọng.
- Tuy nhiên, tình hình hiện tại của chúng ta dường như đang cho thấy những dấu hiệu của một sự giật lùi nào đó. Những xung đột cũ tưởng là đã chôn vùi từ lâu thì nay đang bùng phát lại, trong khi những biểu hiện của một chủ nghĩa dân tộc thù hận và hung hăng, cực đoan và thiển cận đang leo thang. Tại một số quốc gia, một quan điểm nào đó về sự thống nhất đất nước và dân tộc bị ảnh hưởng bởi nhiều ý thức hệ khác nhau đang tạo ra những hình thức ích kỷ mới và sự đánh mất cảm thức xã hội được ngụy trang bởi việc bảo vệ các quyền lợi quốc gia. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhớ rằng “mỗi thế hệ mới phải phấn đấu và đạt được những hiểu biết của các thế hệ đi trước, trong khi xác lập những tầm nhìn cao hơn thế. Đó là nẻo đường. Sự thiện, cùng với tình yêu, công lý và tình liên đới, không đạt được một lần thay cho tất cả; chúng phải được thể hiện mỗi ngày. Không thể tự hài lòng với những gì đã đạt được trong quá khứ và hưởng dụng nó cách mãn nguyện, như thể chúng ta cách nào đó có thể phớt lơ thực tế rằng nhiều anh chị em mình vẫn đang chịu đựng những hoàn cảnh thống thiết kêu gọi sự chú ý của chúng ta”. (8)
- “Mở ra với thế giới” là một thành ngữ đã được tuyển chọn bởi lãnh vực kinh tế và tài chánh, và nay được dùng cách chuyên biệt để chỉ sự mở ra cho các lợi ích của nước ngoài, hay cho sự tự do của các cường quốc kinh tế trong việc đầu tư mà không bị những cản trở hay những rắc rối tại mọi quốc gia. Những xung đột địa phương và sự bất chấp lợi ích chung được nền kinh tế toàn cầu khai thác để áp đặt một mẫu văn hóa duy nhất. Thứ văn hóa này hợp nhất thế giới, nhưng phân rẽ các cá nhân và các dân tộc, vì “khi xã hội trở nên toàn cầu hóa hơn, nó làm cho chúng ta trở thành những người hàng xóm, nhưng không làm cho chúng ta thành anh em”. (9) Chúng ta trở nên cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới ngày càng đồng nhất đại trà cổ võ những ích lợi cá nhân và làm suy yếu chiều kích đời sống cộng đồng. Thật vậy, có những thị trường mà ở đó các cá nhân trở thành những khách tiêu thụ thuần túy hay những kẻ bàng quan. Như một qui luật, sự tăng triển của loại toàn cầu hóa này càng củng cố căn tính của những người mạnh hơn, những người có thể bảo vệ chính mình, nhưng nó có chiều hướng làm suy giảm căn tính của những khu vực yếu và nghèo hơn, làm cho người ta càng chênh vênh và lệ thuộc nhiều hơn. Theo cách này, đời sống chính trị trở nên ngày càng mong manh đứng trước những thế lực kinh tế xuyên quốc gia vốn vận hành theo nguyên tắc “chia để trị”.
Sự kết thúc của ý thức lịch sử
- Điều xảy ra là cảm thức lịch sử ngày càng biến mất, dẫn tới tình trạng càng đổ vỡ thêm. Một xu hướng “phá vỡ kết cấu”, cho rằng sự tự do của con người có thể tạo lập mọi sự bắt đầu từ zê-rô, đang lấn lướt trong nền văn hóa hôm nay. Một hệ lụy của nó, đó là xung năng tiêu thụ vô giới hạn và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trống rỗng. Mối ưu tư về điều này thúc đẩy tôi đưa ra cho các bạn trẻ một lời khuyên. “Nếu có kẻ nào xúi các bạn trẻ đừng quan tâm đến lịch sử của mình, tẩy chay những kinh nghiệm của các bậc lão thành, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà kẻ ấy mời mọc, thì đấy không phải là để dễ dẫn dụ các bạn trẻ đến chỗ họ chỉ làm những gì kẻ ấy bảo họ làm đó sao? Kẻ ấy muốn các bạn trẻ nông cạn hời hợt, mất gốc và mất lòng tin, để các bạn trẻ chỉ tin vào những lời hứa của y và hành động theo các kế hoạch của y mà thôi. Đó là cách mà nhiều ý thức hệ khác nhau vận hành: chúng hủy diệt (hay làm phân rã) mọi sự khác biệt, để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối. Nhưng để làm như thế, chúng cần những người trẻ xem thường lịch sử, những người vứt bỏ các kho tàng nhân bản và tâm linh thừa hưởng từ các thế hệ đi trước, và là những người không ý thức gì về mọi sự đã xảy ra trước mình”. (10)
- Đấy là những hình thức mới của thực dân văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng “các dân tộc rũ bỏ truyền thống của mình, và hoặc bởi a dua muốn bắt chước người khác hay muốn kích động bạo lực, hoặc bởi thái độ lãnh đạm hay vô tâm không thể tha thứ được, các dân tộc ấy để cho kẻ khác tước mất chính linh hồn mình, rốt cục đánh mất luôn không chỉ căn tính tâm linh mà cả tính nhất quán đạo đức, và cuối cùng mất luôn sự độc lập về chính trị, kinh tế và tri thức của mình”. (11) Một cách hữu hiệu để làm suy yếu ý thức lịch sử, khả năng suy nghĩ có phê bình, việc tranh đấu cho công lý và những tiến trình hội nhập, đó là làm cho những từ ngữ quan trọng trở thành trống rỗng ý nghĩa hoặc bóp méo chúng. Ngày nay, một số từ như dân chủ, tự do, công lý hay hiệp nhất thực sự có ý nghĩa gì? Chúng đã bị uốn ép để phục vụ như những công cụ thống trị, những nhãn hiệu vô nghĩa có thể được dùng để biện minh cho bất kỳ hành động nào.
THIẾU MỘT KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI
- Cách hay nhất để khống chế và kiểm soát người ta là làm lan tràn nỗi thất vọng chán chường, ngay cả dưới danh nghĩa bảo vệ những giá trị nào đó. Ngày nay tại nhiều nước, sự cường điệu, quá khích và phân cực đã trở thành những công cụ chính trị. Bằng nhiều cách thức sử dụng sách lược chế nhạo, nghi ngờ và chỉ trích dai dẳng, người ta phủ nhận quyền hiện hữu hay quyền có quan điểm riêng của người khác. Sự thật và các giá trị nơi người khác bị bác bỏ, và kết quả là đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và phải chịu đựng sự ngạo mạn của kẻ có quyền lực. Đời sống chính trị không còn liên quan tới những cuộc tranh luận lành mạnh về các kế hoạch dài hạn để cải thiện đời sống con người và thăng tiến thiện ích chung, mà chỉ liên quan tới những kỹ thuật tuyên truyền tinh vi chủ yếu nhằm làm mất uy tín những kẻ khác. Trong cuộc rình rập đấu đá qua lại này, sự tranh luận suy thoái thành một tình trạng thường xuyên bất hòa và xung đột.
- Ở giữa những cọ xát do xung đột lợi ích, trong đó chiến thắng hệ tại việc loại trừ các đối thủ của mình, làm sao ta có thể nâng tầm nhìn lên để nhận ra những người thân cận của mình, hay giúp đỡ những người gục ngã trên đường? Một kế hoạch xác lập các mục tiêu lớn lao nhằm phát triển toàn thể gia đình nhân loại ngày nay xem chừng nghe có vẻ là điên rồ. Chúng ta đang trở nên ngày càng xa cách nhau, trong khi những bước đi chậm chạp và khó khăn hướng về một thế giới công bằng và hiệp nhất hơn thì đang bị một cú dội ngược mới và thảm hại.
- Chăm sóc thế giới mà ta sống trong đó có nghĩa là chúng ta chăm sóc chính mình. Nhưng chúng ta cần nghĩ nhiều hơn nữa về chính chúng ta như một gia đình duy nhất sống trong một mái nhà chung. Sự chăm sóc như thế không phải là mối quan tâm của những thế lực kinh tế muốn đòi những món lợi nhanh chóng. Những tiếng nói cất lên bảo vệ môi trường thường bị dập tắt hay chế nhạo, trong đó người ta dùng những lập luận nghe có vẻ hợp lý song đó chỉ là một cách che đậy các đặc quyền đặc lợi. Trong nền văn hóa nông cạn và thiển cận mà chúng ta đã tạo ra, thiếu một tầm nhìn chung, “thì có thể đoán trước rằng đến khi một số tài nguyên nào đó cạn kiệt, những cuộc chiến tranh mới sẽ nổ ra, dù che đậy bằng những danh nghĩa cao quí nào đó”. (12)
Một thế giới “vứt bỏ”
- Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể bị hy sinh bất cứ lúc nào vì ích lợi của những người khác vốn được xem là có quyền sống một cách vô tư. Cuối cùng, “nhân vị không còn được xem là một giá trị cao nhất phải được quan tâm và kính trọng, nhất là khi người ta nghèo khổ và tàn tật, ‘chưa có ích’ – như các thai nhi, hay ‘không còn cần đến nữa’ – như những người già. Chúng ta ngày càng thản nhiên với mọi thứ hoang phí, trước hết là sự hoang phí thực phẩm, điều hết sức tồi tệ”. (13)
- Sự suy giảm trong tỉ lệ sinh sản, dẫn tới tình trạng dân số già nua, cùng với sự hất hủi người già khiến họ sống cô độc và buồn thảm, đó là một cách khéo léo để tuyên bố rằng chỉ chúng ta mới quan trọng, rằng những bận tâm cá nhân của chúng ta mới là điều duy nhất đáng kể. Theo cách này, “cái bị vứt bỏ không chỉ là thực phẩm và những đồ vật dư thừa, mà thường là chính những con người nữa”. (14) Chúng ta đã thấy những gì xảy ra với các cụ già tại một số nơi trên thế giới do hậu quả của vi-rút corona. Họ đã không phải chết cách đó. Nhưng một cái gì đó tương tự đã xảy ra từ lâu rồi trong những đợt nóng bức và trong những tình cảnh khác nữa: các cụ già thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng khi cô lập người già và bỏ mặc họ cho sự săn sóc của những người dưng, không có sự thân thiết và quan tâm của người thân trong gia đình, thì đó là chúng ta đang làm méo mó và làm nghèo nàn chính gia đình. Chúng ta cũng đang tước mất của những người trẻ một sự nối kết cần thiết với các gốc rễ của họ, và tước mất một sự khôn ngoan mà người trẻ không thể tự mình đạt được.
- Cách loại bỏ người khác cũng có nhiều dạng, như khi người ta mải mê tìm cách giảm chi phí lao động, mà không quan tâm đến những hậu quả nghiêm trọng của điều đó, vì nạn thất nghiệp mà nó trực tiếp gây ra sẽ dẫn tới tình trạng nghèo túng tràn lan. (15) Ngoài ra, một sự sẵn sàng loại bỏ người khác được thể hiện nơi những thái độ độc ác mà chúng ta nghĩ rằng đã trôi qua lâu rồi, như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng thật sự vẫn ngầm ẩn đâu đó chỉ để tiếp tục bùng lên. Những trường hợp phân biệt chủng tộc tiếp tục làm chúng ta xấu hổ, vì chúng cho thấy rằng cái gọi là sự tiến bộ xã hội của chúng ta thì không có thực hay không rõ ràng như chúng ta nghĩ.
- Một số qui luật kinh tế đã tỏ ra rất hữu hiệu cho sự phát triển, nhưng không phải cho sự phát triển con người toàn diện. (16) Của cải gia tăng, nhưng sự bất bình đẳng cũng gia tăng, dẫn đến “những hình thức mới của nghèo khổ”. (17) Quan điểm rằng thế giới hiện đại đã làm giảm đi cái nghèo là quan điểm dựa trên việc đo lường cái nghèo theo các tiêu chuẩn trong quá khứ, không còn tương ứng với các thực tế ngày nay nữa. Chẳng hạn, vào các thời trước, tình trạng không có điện năng không được xem là một dấu hiệu của cái nghèo, tình trạng ấy cũng không phải là một nguồn của sự khổ cực. Cái nghèo luôn luôn phải được hiểu và lượng định trong bối cảnh của những cơ hội thực tế có sẵn tại mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Các quyền của con người không đủ phổ quát
- Trong thực tiễn, thường ta thấy rõ là các quyền con người không bình đẳng cho tất cả. Việc tôn trọng các quyền ấy “là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Khi phẩm giá của nhân vị được tôn trọng, và các quyền của người ta được bảo đảm, thì tính sáng tạo và tính phụ thuộc lẫn nhau sẽ triển nở, và khả năng sáng tạo của nhân cách con người sẽ phát tiết xuyên qua những hành động thúc đẩy thêm thiện ích chung”. (18) Thế nhưng, “khi nhìn kỹ các xã hội hiện thời của chúng ta, chúng ta thấy vô số những mâu thuẫn khiến ta tự hỏi phải chăng phẩm giá bình đẳng của mọi con người, vốn được long trọng tuyên bố cách đây bảy mươi năm, thực sự được nhìn nhận, được tôn trọng, bảo vệ và cổ võ trong mọi hoàn cảnh. Trong thế giới ngày nay, nhiều hình thức bất công vẫn còn dai dẳng, được nuôi dưỡng bởi những quan điểm nhân học phiến diện và bởi một mô hình kinh tế dựa trên lợi nhuận, do đó không ngần ngại bóc lột, vứt bỏ và ngay cả giết hại những con người. Trong khi một phần của nhân loại sống dư thừa xa xỉ, thì một phần khác thấy phẩm giá của mình bị phủ nhận, khinh rẻ hay chà đạp, và các quyền căn bản của mình bị vứt bỏ hay xâm phạm”. (19) Điều này nói gì với chúng ta về sự bình đẳng của các quyền cắm rễ sâu trong phẩm giá con người?
- Tương tự, việc tổ chức các xã hội trên khắp thế giới vẫn còn chưa phản ảnh bao nhiêu rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và các quyền giống như nam giới. Chúng ta nói một đàng, nhưng các quyết định và thực tế của chúng ta lại đi một nẻo khác. Thật vậy, “có những người nghèo hai lần, đó là những phụ nữ phải chịu những hoàn cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ các quyền của họ”. (20)
- Chúng ta cũng nên nhận ra rằng “ngay cả dù cộng đồng quốc tế đã có nhiều hiệp ước nhằm chấm dứt chế độ nô lệ trong mọi hình thức của nó, và đã đưa ra nhiều chiến lược khác nhau để đấu tranh với hiện tượng này, thì hàng triệu con người hôm nay – trẻ em, phụ nữ, nam giới, ở mọi lứa tuổi – vẫn đang bị tước mất tự do và bị cưỡng chế phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ… Ngày nay, giống như trong quá khứ, chế độ nô lệ cắm rễ trong một quan niệm về nhân vị con người trong đó con người bị đối xử như một đồ vật… Bằng sự khống chế hay bằng lừa gạt, bằng sự đe dọa tâm lý hay thể lý, những nhân vị con người được sinh ra theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài bị tước mất tự do, bị bán và bị coi như là tài sản của kẻ khác. Họ bị đối xử như phương tiện để phục vụ cho mục đích… [Các mạng lưới tội phạm] rất tinh quái trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông như một cách dụ dỗ các chàng trai và các cô gái trẻ ở mọi miền trên thế giới”. (21) Một sự đồi bại vượt mọi giới hạn khi nó cưỡng bức phụ nữ và rồi buộc họ phá thai. Một sự ghê tởm đến mức bắt cóc người ta để bán nội tạng của họ. Nạn buôn người và những hình thức chiếm hữu nô lệ khác hiện nay là một vấn đề trên toàn thế giới cần phải được toàn thể nhân loại nghiêm túc lưu tâm: “vì các tổ chức tội phạm dùng những mạng lưới toàn cầu để đạt được các mục tiêu của chúng, các nỗ lực loại trừ hiện tượng này cũng đòi hỏi một cố gắng chung và thực sự có tính toàn cầu từ phía các bộ phận khác nhau của xã hội”. (22)
Xung đột và sợ hãi
- Chiến tranh, những cuộc tấn công khủng bố, sự bách hại tôn giáo và chủng tộc, và nhiều sự sỉ nhục khác đối với phẩm giá con người được đánh giá một cách khác nhau, tùy nó tỏ ra thuận lợi thế nào cho một số lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế. Điều được coi là đúng miễn là nó thuận lợi cho ai đó nắm quyền lực sẽ không còn đúng một khi nó trở nên bất lợi. Thật buồn để nói rằng những cảnh bạo lực này “đã trở thành quá phổ biến đến nỗi thực sự tạo nên một ‘thế chiến thứ ba’ từng phần”. (23)
- Điều nói trên không đáng ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng không còn những chân trời chung hợp nhất chúng ta nữa; thật vậy, nạn nhân thứ nhất của mọi cuộc chiến tranh là “tiếng gọi từ bên trong hướng đến tình huynh đệ của gia đình nhân loại”. Hậu quả là “mọi hoàn cảnh đe dọa sẽ gây mất sự tin tưởng và thúc đẩy người ta rút vào vùng an toàn của riêng mình”. (24) Thế giới chúng ta bị kẹt trong một mâu thuẫn kỳ lạ: chúng ta tin rằng mình có thể “bảo đảm ổn định và hòa bình xuyên qua một cảm thức an toàn giả tạo được nâng đỡ bởi một tâm thức sợ hãi và nghi ngờ”. (25)
- Thật nghịch lý, chúng ta có một số nỗi sợ truyền kiếp mà sự phát triển công nghệ đã không loại trừ được chúng; quả thật, những nỗi sợ ấy có thể ẩn nấp và lan tràn đằng sau các công nghệ mới. Ngày nay cũng vậy, bên ngoài những bức tường thành cổ là vực sâu, vùng đất bí ẩn, cảnh hoang vu. Bất cứ gì đến từ đó thì không thể tin tưởng được, vì nó bí ẩn, không quen, không phải là một phần của làng xã. Đó là vùng đất của “mọi rợ”, chúng ta phải chiến đấu chống lại họ để tự vệ bằng mọi giá. Thế là những bức tường mới được xây dựng lên để bảo vệ chính mình, thế giới bên ngoài ngừng tồn tại và chỉ còn thế giới “của tôi”, tới mức những người khác không còn được xem là những con người có phẩm giá bất khả nhượng, trở thành “chúng nó” mà thôi. Một lần nữa, chúng ta gặp “cơn cám dỗ xây dựng một nền văn hóa của những bức tường, xây tường lên khắp nơi, những bức tường trong trái tim, những bức tường trên mặt đất, để tránh gặp gỡ những nền văn hóa khác, những người khác. Và những người xây tường sẽ rốt cục trở thành nô lệ bên trong chính những bức tường mà họ đã xây lên. Họ trở thành những người không có chân trời, vì họ thiếu giao tiếp với người khác”. (26)
- Nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an, được kinh nghiệm nơi những người cảm thấy mình bị bỏ rơi bởi hệ thống, sẽ tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho đủ các loại “mafia”. Những thứ này sinh sôi bởi vì chúng tự coi là người bảo vệ cho những ai bị quên lãng, thường bằng cách cung cấp các hình thức hỗ trợ khác nhau, ngay cả trong khi chúng theo đuổi những lợi ích có tính tội phạm của mình. Cũng có tồn tại một khoa sư phạm đặc trưng “mafia”; bằng cách nại đến một thần bí cộng đồng giả tạo, nó tạo ra những mối ràng buộc lệ thuộc và trung thành mà người ta rất khó thoát ra.
TOÀN CẦU HÓA VÀ TIẾN BỘ MÀ KHÔNG CÓ MỘT HƯỚNG ĐI CHUNG
- Cùng với Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, chúng tôi không bỏ qua những bước tiến tích cực được thực hiện trong các lãnh vực khoa học, công nghệ, y tế, công nghiệp và phúc lợi, nhất là tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, “chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cùng với những tiến bộ ấn tượng này, thật là to lớn và có giá trị, vẫn có tồn tại một sự suy thoái đạo đức ảnh hưởng đến tương tác quốc tế, và một tình trạng suy yếu các giá trị tâm linh và trách nhiệm. Điều này góp phần gây ra một cảm giác chán nản, cô độc và thất vọng”. Chúng tôi nhận thấy “những bộc phát căng thẳng và tình trạng tăng cường vũ khí và đạn dược trong một bối cảnh toàn cầu bị thống trị bởi những bất trắc, vỡ mộng, nỗi sợ hãi tương lai, và bị kiểm soát bởi những lợi ích kinh tế hẹp hòi”. Chúng tôi cũng có thể chỉ ra “những khủng hoảng lớn về chính trị, những tình trạng bất công và sự thiếu quân bình trong phân phối các nguồn tài nguyên thiên nhiên… Đứng trước những khủng hoảng như thế – gây ra cái chết của hàng triệu trẻ em, bị suy dinh dưỡng do nghèo đói – có một sự thinh lặng không thể chấp nhận được trên bình diện quốc tế”. (27) Bức tranh toàn cảnh này, dù với những tiến bộ không thể chối cãi của nó, có vẻ không dẫn tới một tương lai nhân đạo hơn.
- Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất đang mờ nhạt dần, và giấc mơ cùng làm việc với nhau mưu cầu công lý và hòa bình dường như là một lý tưởng đã lỗi thời. Thay vào đó, cái đang thống trị là một sự thờ ơ vô tâm lạnh lùng được toàn cầu hóa, phát sinh từ sự vỡ mộng sâu xa ẩn đằng sau một ảo tưởng có tính đánh lừa: ý nghĩ rằng chúng ta toàn năng, trong khi không nhận ra rằng tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này, không chút ý thức về các giá trị lớn lao của tình huynh đệ, dẫn tới “một loại chủ trương yếm thế. Bởi đó là cám dỗ chúng ta sẽ gặp nếu đi theo con đường vỡ mộng và thất vọng… Tình trạng cô lập và sự rút vào trong những lợi ích riêng mình không bao giờ là con đường phục hồi niềm hy vọng và đem lại sự đổi mới. Đúng hơn, phải là sự gần gũi; phải là nền văn hóa gặp gỡ. Hãy nói ‘không’ với cô lập, và nói ‘vâng’ với gần gũi! Hãy nói ‘không’ với văn hóa đối đầu, và hãy nói ‘vâng’ với văn hóa gặp gỡ”. (28)
- Trong thế giới đang lao gấp về phía trước này, nhưng lại thiếu một định hướng chung, chúng ta ngày càng cảm thấy rằng “khoảng cách giữa mối bận tâm về sự sung túc riêng mình và sự sung túc của gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như là một khoảng cách đang giãn ra tới mức phân hóa hoàn toàn giữa các cá nhân và cộng đồng nhân loại… Việc cảm thấy buộc lòng phải sống với nhau là một chuyện, nhưng việc trân trọng sự phong phú và vẻ đẹp nơi những hạt giống của đời sống chung cần được tìm kiếm và chăm sóc, thì đó lại là một chuyện hoàn toàn khác”. (29) Công nghệ thì thường xuyên tiến bộ, nhưng “sẽ tuyệt vời biết bao nếu sự phát triển của việc đổi mới khoa học và công nghệ có thể song hành với việc có sự bình đẳng và sự bao gồm xã hội nhiều hơn. Tuyệt vời biết bao, nếu trong khi chúng ta khám phá những hành tinh rất xa xăm, thì chúng ta cũng khám phá lại các nhu cầu của những người anh em chị em đang đi xung quanh mình”. (30)
NHỮNG ĐẠI DỊCH VÀ NHỮNG TAI ƯƠNG KHÁC TRONG LỊCH SỬ
- Quả là một bi kịch toàn thế giới như cơn đại dịch Covid-19 đã tức thời khơi lại cảm thức rằng chúng ta là một cộng đồng toàn cầu, tất cả ở trên cùng một con thuyền, trong đó những vấn đề của một người là những vấn đề của tất cả. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau. Như tôi đã nói trong những ngày đó: “Cơn bão đã phơi bày sự mong manh của chúng ta, và cho thấy những sự an ổn hời hợt và giả tạo mà chúng ta đã dựa vào đó để thiết lập thời biểu hằng ngày của mình, thiết lập những kế hoạch, những thói quen và những mối ưu tiên của mình… Ở giữa cơn bão này, bộ mặt của những khuôn mẫu mà chúng ta dùng để che đậy cái tôi của mình – bởi ta luôn lo lắng về những dáng vẻ bên ngoài – bộ mặt ấy đã rơi đi, và một lần nữa cho thấy cái ý thức hiển nhiên và chân thực rằng chúng ta là một phần của nhau, chúng ta là anh em chị em của nhau”. (31)
- Thế giới đã ngang nhiên tiến tới một nền kinh tế tìm cách giảm “các chi phí con người”, nhờ vào những tiến bộ công nghệ; có những người muốn thuyết phục chúng ta tin rằng sự tự do của thị trường là đủ để giữ mọi sự được yên ổn. Nhưng cú tát dữ dội bất ngờ của cơn đại dịch bất kham này đã buộc chúng ta phải phục hồi lại mối quan tâm dành cho con người, cho mọi người, thay vì cho lợi ích của một ít người. Ngày nay chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta đã nuôi mình bằng những giấc mơ huy hoàng vĩ đại, để kết cuộc là hứng lấy sự phiền trí, sự đóng kín và cô độc. Chúng ta mải mê tạo các mối quan hệ, và đánh mất cảm giác về tình huynh đệ. Chúng ta tìm kiếm những kết quả nhanh chóng và chắc chắn, chỉ để tìm thấy chính mình ngập chìm trong sự nóng nảy và lo âu. Là những tù nhân của một thực tế ảo, chúng ta đánh mất hương vị của những gì thực sự là hiện thực”. (32) Cơn đại dịch đem lại nỗi đau đớn, bất an và sợ hãi, và giúp ta nhận ra những giới hạn của chính mình, điều này càng cho thấy ta phải khẩn thiết suy nghĩ lại về lối sống của mình, về các mối tương quan của chúng ta, về sự tổ chức các xã hội của chúng ta, và nhất là về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
- Nếu mọi sự nối kết nhau, thì thật khó tưởng tượng rằng tai họa toàn cầu này không dính dáng gì đến cách chúng ta tiếp cận thực tại, cũng như việc ta tự coi mình là chủ nhân tuyệt đối của cuộc sống mình và của tất cả những gì hiện hữu. Tôi không muốn nói về sự trừng phạt của Thiên Chúa, cũng sẽ bất cập nếu nói rằng việc chúng ta phá hại thiên nhiên thì tự nó là hình phạt cho những xúc phạm của chúng ta. Chính thế giới đang kêu gào phản loạn. Chúng ta được nhắc nhớ câu thơ nổi tiếng của Virgil về “nước mắt của mọi vật”, về những mối họa của đời sống và của lịch sử. (33)
- Tuy nhiên, thật nhanh chóng, chúng ta quên những bài học của lịch sử là “vị thầy dạy sống”. (34) Một khi cơn khủng hoảng y tế này trôi qua, câu trả lời tệ nhất của chúng ta sẽ là cắm đầu sâu hơn nữa vào thói hăm hở tiêu thụ và những hình thức mới của bản năng tự tồn nhuốm màu ích kỷ. Hy vọng rằng sau tất cả những điều này, chúng ta sẽ không còn nghĩ về “họ” hay “chúng nó”, nhưng chỉ nghĩ về “chúng ta”. Ước gì đây không chỉ là thêm một bi kịch nữa trong lịch sử mà chúng ta không rút ra được bài học gì từ nó. Ước gì chúng ta không quên tất cả những cụ già đã phải chết do thiếu máy trợ thở, phần nào đó là hậu quả của sự phân rã các hệ thống y tế từ năm này qua năm khác. Ước gì nỗi buồn đau này không trở thành vô ích, nhưng có thể giúp chúng ta bước tới một phong cách sống mới. Ước gì chúng ta có thể khám phá lại một cách rõ ràng dứt khoát rằng chúng ta cần nhau, và rằng bằng cách này gia đình nhân loại của chúng ta có thể kinh nghiệm một cuộc tái sinh, với tất cả các khuôn mặt của nó, với tất cả những bàn tay và những tiếng nói của nó, bên kia những bức tường mà chúng ta đã dựng lên.
- Nếu chúng ta không phục hồi niềm say mê cùng nhau kiến tạo một cộng đồng với cảm thức thuộc về và liên đới với nhau, xứng đáng với thời gian, năng lực và các nguồn tài nguyên của mình, thì cái ảo tưởng toàn cầu từng dẫn chúng ta đi lạc sẽ sụp đổ và đặt nhiều người vào gọng kìm của khổ sở và trống rỗng. Chúng ta cũng sẽ không ngây thơ phủ nhận sự thật rằng “việc đắm chìm trong một lối sống hưởng thụ, nhất là khi chỉ một ít người có khả năng đạt được nó, chỉ có thể dẫn tới bạo lực và sự hủy diệt lẫn nhau”. (35) Quan niệm “phần ai nấy lo” sẽ nhanh chóng dẫn tới một tình trạng hỗn loạn còn tệ hại hơn bất cứ cơn đại dịch nào.
KHÔNG THẤY NHÂN PHẨM Ở CÁC VÙNG BIÊN GIỚI
- Một số chế độ chính trị dân túy, cũng như một số đường lối kinh tế tự do, chủ trương rằng bằng mọi giá phải ngăn chặn tình trạng tràn ngập di dân. Người ta cũng đưa ra các luận điểm biện minh cho việc giới hạn sự trợ giúp các nước nghèo, rằng để các nước ấy rơi xuống tận đáy và nhận ra rằng họ phải thắt lưng buộc bụng. Người ta không nhận thức được rằng đằng sau những tuyên bố như thế, vốn rất trừu tượng và khó chấp nhận, có vô số mảnh đời đang lâm nguy. Nhiều di dân đã chạy trốn tránh chiến tranh, bách hại, và thiên tai. Những người khác, quả thật, “đang tìm kiếm các cơ hội cho bản thân và gia đình mình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo ra các điều kiện để đạt được tương lai ấy”. (36)
- Buồn thay, một số người “bị lôi cuốn bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi với các kỳ vọng không thực tế để rồi phải hứng thất vọng ê chề. Những kẻ buôn lậu bất lương thường liên kết với các tập đoàn ma túy hay vũ khí để khai thác điểm yếu của những người di dân, là những người thường kinh nghiệm bạo lực, việc buôn bán phi pháp, sự lạm dụng tâm lý và thể lý, và vô vàn nỗi khổ trên hành trình của họ”. (37) Những người ra đi thì “kinh nghiệm sự tách rời khỏi nguyên quán của mình, cũng như thường kinh nghiệm một sự bật rễ về tôn giáo và văn hóa. Tình trạng phân rã cũng được cảm nhận bởi những cộng đồng mà họ bỏ lại sau lưng – những cộng đồng ấy đánh mất các phần tử năng động và trổi trang nhất của mình – cũng như được cảm nhận bởi các gia đình, nhất là khi một hay cả hai cha mẹ di cư, để con cái lại ở quê nhà”. (38) Vì thế, “cũng cần phải khẳng định lại quyền không di cư, nghĩa là người ta có quyền ở lại quê hương của họ”. (39)
- Thêm nữa, “tại một số nước chủ nhà, hiện tượng di dân gây ra sự sợ hãi và cảnh giác, thường được kích động và khai thác để phục vụ những mục tiêu chính trị. Điều này có thể dẫn tới một não trạng bài ngoại, trong đó người ta đóng kín nơi chính mình, cần phải giải quyết dứt khoát não trạng như thế”. (40) Những người di dân không được xem là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng người di dân có cùng phẩm giá thâm sâu như bất cứ ai. Vì thế họ phải là “những tác nhân trong công cuộc cứu chuộc của chính mình”. (41) Không ai dám công khai bảo rằng họ không phải là những con người, nhưng trong thực tế, qua những quyết định và cách thức chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta xem họ như ít có giá trị, ít quan trọng, ít là người hơn. Đối với các Kitô hữu, lối suy nghĩ và hành động này không thể chấp nhận được, vì nó đặt một số quan tâm chính trị lên trên những xác tín sâu xa của đức tin chúng ta: phẩm giá bất khả nhượng của mỗi nhân vị bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, cùng với luật tối thượng là tình yêu huynh đệ.
- “Hiện tượng di dân, hơn bất cứ thời nào trước đây, sẽ đóng một vai trò then chốt trong tương lai của thế giới chúng ta”. (42) Tuy nhiên, hiện nay việc di dân bị ảnh hưởng bởi “tình trạng mất cảm thức trách nhiệm đối với anh chị em mình, cảm thức mà mọi xã hội dân sự đặt nền trên đó”. (43) Âu Châu, chẳng hạn, đang có nhiều nguy cơ trôi theo nẻo đường này. Dù sao, “được trợ giúp bởi di sản tôn giáo và văn hóa lớn lao của mình, lục địa này có phương tiện để bảo vệ tính trung tâm của nhân vị và để tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm luân lý lưỡng diện của mình, đó là vừa bảo vệ quyền lợi của các công dân vừa bảo đảm sự trợ giúp và đón nhận những người nhập cư”. (44)
- Tôi nhận thấy một số người lưỡng lự và lo sợ trước những người nhập cư. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ tự nhiên của chúng ta. Tuy nhiên, cũng hiển nhiên rằng một cá nhân và một dân tộc chỉ triển nở và phong phú khi có thể phát triển một thái độ cởi mở đầy sáng tạo đối với người khác. Tôi xin mọi người vượt qua những cách phản ứng quá sơ khai nói trên, vì “sẽ là vấn đề khi những nghi ngờ và sợ hãi dẫn dắt cách nghĩ và cách hành động của chúng ta, tới mức làm cho chúng ta trở thành bất bao dung, đóng kín và có lẽ ngay cả kỳ thị chủng tộc mà không hề ý thức. Theo cách này, sự sợ hãi tước khỏi chúng ta khát vọng và khả năng gặp gỡ người khác”. (45)
ẢO TƯỞNG CỦA TRUYỀN THÔNG
- Thật kỳ quặc, trong khi những thái độ đóng kín và bất bao dung đối với người khác đang trên đà gia tăng, thì những khoảng cách đang thu lại hay biến mất, tới mức quyền riêng tư dường như không còn tồn tại. Mọi sự đã trở thành một thứ sân khấu cho người ta khảo sát và do thám, và cuộc sống con người giờ đây thường xuyên bị giám sát. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa tất cả ra công khai; cuộc sống của người ta bị săm soi, bị phơi trần và kháo láo, thường là một cách vô danh. Sự tôn trọng người khác bị tan vỡ, và trong khi chúng ta loại trừ, thờ ơ hay giữ khoảng cách với người khác, thì chúng ta lại có thể trơ tráo lùng sục vào mọi chi tiết trong cuộc sống của họ.
- Những chiến dịch trên mạng có tính thù hận và hủy diệt, về phần chúng, không phải là một hình thức tích cực của sự tương trợ – như một số người muốn làm cho chúng ta tin như thế – song đó chỉ là một khối liên kết các cá nhân để chống lại một ai đó được cho là kẻ thù chung. “Truyền thông kỹ thuật số cũng có thể đặt người ta trước nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần đánh mất sự tiếp xúc với thực tế cụ thể, chặn đứng sự phát triển các mối tương quan liên vị đích thực”. (46) Chúng không có những cử chỉ thân thể, những diễn tả trên nét mặt, những khoảnh khắc thinh lặng, ngôn ngữ thân xác và thậm chí không có mùi hương, không có cái run rẩy của đôi bàn tay, sự đỏ mặt hay toát mồ hôi, là những điều có thể nói với chúng ta và là một phần của truyền thông con người. Những mối tương quan trên mạng, vốn không đòi hỏi sự vun xới dần dần tình thân hữu, sự tương tác ổn định hay việc xây dựng một sự đồng tâm nhất trí chín muồi qua thời gian, chúng có dáng vẻ của sự hòa đồng. Nhưng chúng không thực sự làm nên cộng đồng; thay vào đó, chúng có khuynh hướng che đậy và bành trướng cái chủ nghĩa cá nhân được biểu hiện nơi sự bài ngoại và sự coi thường những người yếu đuối. Sự nối kết trên mạng không đủ để xây dựng những nhịp cầu. Nó không có khả năng hợp nhất nhân loại.
Sự hung hăng trơ trẽn
- Dù các cá nhân giữ tình trạng cô lập có tính hưởng thụ và thoải mái của mình, họ có thể chọn một dạng gắn kết sốt sắng và thường xuyên, trong đó họ rõ ràng cổ vũ thái độ thù địch, những lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng, và ngôn ngữ bạo lực có sức hủy diệt người khác – và những điều này được thể hiện một cách thiếu kiềm chế, theo cách không thể tồn tại trong thế giới thực mà không xé nát vụn chúng ta. Sự gây hấn xã hội đã tìm thấy chỗ ‘tốt nhất’ của nó để lan tỏa xuyên qua các máy tính và các thiết bị di động.
- Hiện nay tình hình này đã thả phanh cho các ý thức hệ. Có những điều mà cho tới ít năm cách đây thôi không ai có thể nói mà không có nguy cơ đánh mất sự tôn trọng của mọi người, thì nay người ta có thể nói mà không hề hấn gì, và nói thẳng tuột, ngay cả bởi một số chính khách tên tuổi. Chúng ta cũng đừng quên rằng “có những lợi nhuận khổng lồ vận hành trong thế giới kỹ thuật số, nó có thể có những hình thức kiểm soát vừa rất tinh vi vừa rất lan tràn, tạo ra cơ chế cho sự dẫn dụ lương tâm người ta và sự lừa mị tiến trình dân chủ. Cách thế mà nhiều diễn đàn làm việc thường dẫn đến chỗ ủng hộ sự gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, tránh cho họ khỏi bị tranh cãi. Những nhóm đóng kín này dễ tạo điều kiện cho sự lan truyền tin giả và thông tin không đúng, kích động thành kiến và đố kỵ”. (47)
- Chúng ta cũng cần nhận ra rằng những hình thức cực đoan đầy sức tàn phá đôi khi được tìm thấy giữa các tín đồ của các tôn giáo, kể cả các Kitô hữu; họ cũng “có thể bị cuốn vào mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên mạng internet và những diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, có thể người ta cũng bỏ qua các giới hạn, việc bôi nhọ và vu khống có thể trở nên phổ biến, và người ta có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn đạo đức và sự tôn trọng thanh danh của người khác”. (48) Làm sao điều này có thể đóng góp vào tình huynh đệ mà Cha trên trời kêu gọi chúng ta?
Thông tin mà không có sự khôn ngoan
- Sự khôn ngoan đích thực đòi hỏi phải gặp gỡ thực tại. Tuy nhiên, ngày nay mọi sự có thể được tạo ra, ngụy trang và thay thế. Vì thế, một sự gặp gỡ trực tiếp với chỉ men bờ của thực tại cũng có thể được thấy là quá sức chịu đựng. Bấy giờ một thứ nguyên tắc chọn lựa sẽ nhập cuộc, theo đó tôi có thể ngay lập tức phân ra hai loại: thích và không thích; tức những gì tôi thấy hấp dẫn và những gì tôi thấy ngán ngẩm. Tương tự, chúng ta có thể chọn những người mà mình muốn chia sẻ thế giới của mình với họ. Còn những người hay những tình huống mà ta thấy không thích thú hay không hợp ý thì đương nhiên bị xóa trong mạng lưới ảo hôm nay; như vậy một nhóm ảo được tạo ra, cô lập chúng ta khỏi thế giới thực mà mình sống trong đó.
- Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, đặc trưng của những gặp gỡ liên vị, là kiểu thức của thái độ nồng nhiệt nơi những người vượt qua xu hướng ái kỷ và đón nhận người khác, quan tâm đến họ và đón nhận họ vào cuộc sống mình. Nhưng “thế giới ngày nay nhìn chung là một thế giới điếc… Nhiều khi, nhịp sống hối hả của thế giới hiện đại không cho phép chúng ta chú ý lắng nghe những gì mà người khác nói. Mới nghe nửa chừng, chúng ta ngắt lời người ấy và muốn cãi lại điều mà người ấy thậm chí chưa nói xong. Chúng ta không được đánh mất khả năng lắng nghe”. Thánh Phanxicô “nghe tiếng nói của Thiên Chúa, ngài nghe tiếng nói của người nghèo, tiếng nói của người đau yếu, và tiếng nói của thiên nhiên. Ngài lấy tất cả làm con đường sống. Tôi mong ước hạt giống mà Thánh Phanxicô đã gieo trồng có thể lớn lên trong trái tim của nhiều người”. (49)
- Khi sự thinh lặng và sự chú ý lắng nghe biến mất, bị thay thế bằng đủ thứ tin nhắn, thì cấu trúc căn bản này trong sự truyền thông của con người khôn ngoan bị lâm nguy. Một lối sống mới nổi lên, trong đó chúng ta tạo ra chỉ những gì chúng ta muốn, và loại bỏ tất cả những gì chúng ta không thể kiểm soát hay không thể biết được cách hời hợt và ngay tức thì. Tiến trình này, do lô-gic nội tại của nó, chặn đứng loại suy tư thanh thản có thể dẫn chúng ta đến một sự khôn ngoan chung.
- Cùng với nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật trong đối thoại, trong trao đổi nhẹ nhàng hay trong tranh luận sôi nổi. Để làm thế, cần kiên nhẫn; nó gắn liền với những khoảnh khắc thinh lặng và đau khổ, nhưng nó có thể nhẫn nại đón nhận kinh nghiệm lớn hơn của các cá nhân và các dân tộc. Cơn lũ thông tin ở các đầu ngón tay chúng ta không đem lại nhiều khôn ngoan hơn. Sự khôn ngoan không sinh ra từ những tra cứu nhanh trên internet, nó cũng không phải là một mớ dữ liệu không được xác thực. Đó không phải là cách để trưởng thành trong gặp gỡ sự thật. Những cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh các dữ kiện mới nhất; chúng trở thành duy chỉ một chiều ngang và được chất đống. Chúng ta không tập trung được sự chú ý của mình, để thâm nhập vào cốt lõi của sự vật, và để nhận ra cái gì là thiết yếu trao ban ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Như thế tự do trở thành một ảo tưởng mà chúng ta được nhồi nhét cho, nó dễ bị lẫn lộn với khả năng lướt mạng internet. Tiến trình xây dựng tình huynh đệ, ở cấp địa phương hay phổ quát, chỉ có thể được đảm nhận bởi những tinh thần thực sự tự do và mở ra cho những sự gặp gỡ chân thực.
NHỮNG HÌNH THỨC PHỤC TÙNG VÀ TỰ COI THƯỜNG MÌNH
- Một số quốc gia sung túc về kinh tế thường được biểu dương như những hình mẫu văn hóa cho các nước kém phát triển hơn; thay vào đó, mỗi quốc gia nên được giúp đỡ để phát triển theo cách thức riêng của mình, và phát triển khả năng đổi mới của mình trong khi tôn trọng các giá trị văn hóa của riêng mình. Một ao ước nông cạn và ngớ ngẩn muốn bắt chước kẻ khác sẽ dẫn người ta tới chỗ sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và sẽ củng cố mặc cảm tự ti dân tộc. Tại những khu nhà giàu của nhiều nước nghèo, và đôi khi nơi những người vừa mới thoát lên khỏi cảnh nghèo, có một sự đề kháng đối với những cách nghĩ và cách làm của bản xứ, và một khuynh hướng coi thường căn tính văn hóa của chính mình, như thể đó là nguyên nhân duy nhất của mọi sự yếu kém.
- Tiêu diệt lòng tự trọng là một cách dễ dàng để thống trị người khác. Đàng sau những xu hướng san phẳng thế giới của chúng ta có nổi lên những lợi ích của kẻ mạnh tìm cách lợi dụng thái độ tự ti như thế, trong khi cố dùng mạng lưới truyền thông để tạo ra một nền văn hóa mới nhằm phục vụ tầng lớp thượng lưu. Điều này chống đỡ cho chủ nghĩa cơ hội của các nhà đầu tư và các nhà khai thác tài chính, rốt cục người nghèo luôn luôn là